cheap replica rolex
trongmualan.com
Quảng cáo
qc phải

Tin Tức Chuông Trống Chùa

LỊCH SỬ CỦA TRỐNG CHÙA

LỊCH SỬ CỦA TRỐNG CHÙA
Bài viết sẽ giúp các bạn thấy được sự ra đời và phát triển của trống chùa Việt Nam

LỊCH SỬ CỦA TRỐNG CHÙA

 

Lịch sử của Trống chùa xuất hiện từ văn hóa cổ đại trong nghi lễ trong nhà Phật, từ xưa cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào ghi lại một cách đầy đủ. Nhưng người ta dựa theo những chi tiết còn khắc ghi lại trên các tranh ảnh điêu khắc vào thời kỳ đầu tiên của Phật giáo, tại Ấn Độ và các quốc gia có nền văn hóa Phật học như : Tích Lan, Miến Ðiện, Tây Tạng, Thái lan, Lào, Cam pu chia, Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên… để tiếp tục chế tạo ra những loại Chuông, Trống, Mõ, mới để thích nghi theo nhu cầu của thời đại.

 

trống chùa

Trống chùa Việt Nam

 

Trống chùa là những nhạc cụ phổ biến và không thể thiếu trong các nghi lễ Phật giáo theo đó là chuông chùa và mõ chùa, tại mỗi chùa trước khi cử hành nghi lễ và sau khi chấm dứt buổi lễ. Chuông, Trống, Mõ là những âm thanh mang năng lượng sáng tạo, để trợ giúp người con Phật biểu hiện lòng thành tán tụng, tôn kính Đức Phật một cách trang nghiêm.

Mục đích chính của tiếng trống chùa là giữ trường canh cho tất cả mọi người tụng kinh trong các buổi lễ, theo điệu nhịp nhàng, thanh thoát, để phát tâm thành kính với Tam Bảo và cùng nhau sống theo lời dạy của Ðức Phật, mà tinh tấn trên con đường giải thoát và giác ngộ.

Trong những lúc bắt đầu hành lễ, người ta thường thỉnh chuông, đánh trống, hay gõ mõ. Đây là việc làm mang ngầm ý thỉnh cầu Đức Phật chứng minh và đồng thời nó cũng là điều nhắc nhở cho tất cả mọi người đang hiện diện cùng nhau trở về với Chánh niệm, nơi chánh điện.

Đánh chuông, trống, hay gõ mõ cũng là một pháp tu Chánh niệm. Bởi vì người có chánh niệm khi họ đánh chuông trống, hay gõ mõ, thì những âm thanh giao động ngân vang, đều đặn, thư thả, phát ra dể đánh thức và chuyển hoá năng lực thính âm của những người xung quanh chuyên chú vào lời kinh pháp. Mặc dù chỉ là hình thức, nhưng hiểu được ý nghĩa và nội dung về việc sử dụng là đạt được thành qủa toàn vẹn trong việc thực hành muốn làm của chính mình.

Trong trường hợp không có chuông, trống, mõ, người con Phật có thể tụng niệm bình thường, không có gì phải lo sợ trong việc tu tập của mình bị mất đi ý nghĩa. Có nhiều cách có thể giúp mình trở về với Chánh niệm, chứ không phải nhờ có chuông, trống, mõ, mà mình mới thể hiện được việc này.

Quan niệm đơn giản dể hiểu chuông, trống, mõ chỉ là vật dùng để phụ trợ cho con người dể dàng trở về với chánh niệm, trong lúc tụng kinh hay hành thiền. Sống trong cảnh đời bất toàn, nên phải học cái tương đối và chấp nhận nó, không nên bày vẽ theo nhu cầu của nghi thức, rồi sẽ bị mắc kẹt vào đó, khi không có những phương tiện để thực hiện theo những nhu cầu đặt ra. Cũng như, tùy theo sức khỏe của mình mỗi ngày, có khi mình có khả năng tụng niệm, lớn tiếng hay nhỏ tiếng và có khi mình niệm thầm trong miệng. Tất cả đều do mình chủ động theo khả năng của bản thân và ngoại cảnh cho phép.

Đức Phật không có khen thưởng hay trừng phạt bất cứ ai. Ngài chỉ là người thầy chỉ đường cho những ai thích tìm đạt đến sự hoàn toàn giác ngộ giống như Ngài, mà tự tu tập theo phương pháp của Ngài đã chứng nghiệm.

Chuông, trống, mõ, mỗi thứ đều mang một ý nghĩa đặc biệt và những pháp thức riêng, khi dùng trong các nghi lễ Phật. Do đó tại sao chuông, trống, mõ có nhiều hình thức và những hình dạng khác nhau.

Theo truyền thuyết xưa cho thấy, trong các nghi lễ, Chuông, Trống, Mõ, là biểu trưng kết hợp giữa lòng từ bi của Đức Phật được hình dung qua những lòng thành tâm tán tụng bằng tất cả cuộc sống của chính người cầu nguyện và những âm thanh hòa hợp của Chuông, Trống, Mõ, là sự cảnh tỉnh cho mọi người thức tỉnh cái bản tâm sẵn có của mình, mà nên tu hành ngay bây giờ, theo Trí tuệ của Bậc Giác Ngộ hoàn toàn.

Chuông trống là một trong các loại pháp khí của Phật giáo. Sở dĩ gọi là Bát-nhã (phiên âm của chữ “prajnaa” (S) có nghĩa là “trí tuệ”) vì công năng của chúng là để thức tỉnh lòng người, có khả năng đánh động tâm linh của người nghe. Chuông Trống Bát-nhã là danh từ chung để chỉ cho đại hồng chung (chuông rất lớn) và trống lớn, thường được đặt hai bên trái phải của chánh điện, theo cách “tả chung hữu cổ” nghĩa là bên trái đặt chuông, bên phải đặt trống. Nhiều chùa còn xây tháp an trí chuông và trống, nên nơi đặt chuông trống là “lầu chuông trống”.

 

 

 

III. Nguồn gốc và ý nghĩa của Trống

Trống là một trong những loại nhạc khí, thường làm bằng đá, cây, đồng, v.v…Xưa tại Ấn Ðộ dùng để báo thời gian, cảnh báo. Khi Ðức Phật còn tại thế, dùng nó để tập họp chúng Tăng Bố-tát, nghe pháp…Ngũ Phần Luật có ghi: “chư Tỳ-kheo bố – tát, chúng bất thời tập. Phật ngôn: nhược đả kiền chuỳ, nhược đả cổ…”. Trung Quốc thời xưa dùng nó trong các dịp lễ lộc, vũ hội…Loại hình có to, nhỏ, treo hoặc để trên giá…Trống to gọi là trống tẩu, nhỏ gọi là trống ứng, treo để đánh gọi là trống treo…

 

Đánh trống chùa

Nhà sư đánh trống chùa

 

Từ đời Ðường về sau, theo thanh quy của thiền môn, trống là một trong những loại pháp khí dùng làm hiệu lệnh báo thời sớm tối. Sau này Phật giáo Trung Quốc tiến thêm bước nữa là phối hợp nhịp điệu, âm thanh của tiếng trống hòa cùng những lời tán tụng, phổ thành nhạc điệu, gọi là “kỹ nhạc cúng dường, trang nghiêm đạo tràng”, dùng âm thanh làm Phật sự, trợ giúp đại chúng phát tâm thành kính với Tam Bảo.

Ai đã đưa trống vào tự viện? Năm nào? Chúng tôi chưa tìm ra tài liệu để đưa ra một giả thuyết khả dĩ. Tuy nhiên, dựa vào bản dịch bài Thiền Sư Đại Điên và Hàn Dũ thời Đường Hiến Tông năm 820, chúng ta thấy chuông và trống đã được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ Phật giáo. Do đó, ít nhất chúng ta đoán được là trước năm 820, trống đã được đưa vào chùa để làm pháp khí.

Ngày nay, có một vài nghi thức tán tụng ở miền Trung và miền Nam sử dụng trống nhỏ để hỗ trợ cho quý Thầy khi tán tụng. Các loại nghi thức tán tụng này có lẽ cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc, vì các thời tụng niệm của Phật giáo Trung Quốc đều có tán, và loại trống nhỏ này (người Việt mình hay gọi là Trống Cơm) cũng được xem như một loại pháp khí.

Cách đánh Trống Bát-nhã và ý nghĩa biểu trưng:

- Mới đầu đánh nhập 2 tiếng: biểu thị NHỊ ĐẾ dung thông (pháp thế gian và pháp xuất thế gian dung thông, không ngăn ngại).

- 3 tiếng tiếp (mỗi lần 1 tiếng): tượng trưng cho sự khấu đầu quy y TAM BẢO, nguyện dứt trừ tam độc: tham, sân si.

- 7 tiếng sau đó (vì tiếng thứ 7 và 8 đánh gấp, tính gộp thành 1 tiếng), tượng trưng cho BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT THƯỢNG ĐƯỜNG, tức tác pháp thỉnh Phật thăng toà.

- Nếu 7 tiếng này tính thành 8 tiếng: tượng trưng cho câu “MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA” hoặc BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT LAI CHỨNG MINH, tức tác pháp thỉnh Phật chứng minh.

- Cuối cùng đánh dứt 4 tiếng: tượng trưng cho chứng nhập TỨ ĐẾ.

 

IV. Vài ý tưởng khác

1) Vài ý niệm về việc sử dụng chuông, trống, khánh tại Ấn Ðộ và các nước khác

Theo cuốn A Dictionary of Symbols (London, 1962, trang 23) cho rằng âm thanh của chuông là biểu tượng của năng lực sáng tạo. Chuông treo lơ lửng tượng trưng cho sự huyền bí của trời và đất. Hình dáng của chuông xuất phát lấy từ hình tượng vòm trời.

Ấn Độ đã biết sử dụng chuông trên 2000 năm về trước, và có lẽ chuông được sử dụng rộng rãi trong cung đình, đặc biệt trong các chùa chiền. Các hình thức nghệ thuật như điêu khắc chùm chuông xuất hiện vào thời kỳ đầu của Phật giáo có thể được tìm thấy trên các bức phù điêu trên các trụ đá của vua Asoka (A-dục) và các tháp tôn trí xá-lợi của đức Phật. Không phải tại Ấn Ðộ mà ngay cả các nước lân cận chịu ảnh hưởng lớn nền văn hóa tư tưởng Ấn Ðộ như Tích Lan, Miến Ðiện cũng sử dụng chuông, và sau này cả trống nữa, để biểu hiện lòng thành của người cầu nguyện, và đặc biệt dùng khi chấm dứt một khóa lễ.

Trong các dịp tưởng niệm đức Phật, các chuông được sử dụng cùng với một số nhạc khí khác như trống, sáo để biểu hiện lòng tôn kính đức Phật. Tác phẩm Saddharmàlankàra, một tác phẩm văn học tôn giáo thời trung đại của người Tích Lan ghi rằng: chuông được sử dụng đầu tiên ở Tích Lan vào những dịp đặc biệt như triệu tập tăng chúng. Sau này dần dần nó trở thành một phần của nghi lễ cúng dường âm nhạc (‘sabda-pùjà) cho đức Phật.

Tín đồ Phật giáo Tây Tạng tin rằng khi họ niệm chú, nhờ sức quay chuông của họ mà các câu thần chú sẽ đi muôn nơi vạn hướng, làm vơi bớt nỗi đau khổ của cuộc đời. Cho nên Phật giáo Tây Tạng chế nhiều cỡ chuông cầm tay cho tín đồ trì niệm và cả những chuông lăn lớn để tín đồ quay.

Dĩ nhiên các loại chuông trống ở Ấn Độ thuở ban đầu không giống với các loại chuông trống ngày nay ở Trung Quốc hay Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Ở Trung Quốc trống chỉ được sử dụng để thúc quân ra trận. Chuông (một hình thức của chiêng) được sử dụng như dấu hiệu của rút quân. Trong các buổi lễ tế giao của thiên tử không thấy đề cập đến sử dụng các loại nhạc khí nầy. Trống phần lớn cũng để triệu tập ba quân tướng sĩ hoặc kêu oan ở cửa quan. Loại trống này được sử dụng rộng rãi về sau trong giới quan lại để hành quyết tội nhân ở pháp đường.

2) Sự mầu nhiệm của tiếng Khánh

Theo như các thiền sử ghi lại qua các hành trạng của một số vị thiền sư, thì tiếng khánh có tác dụng rất lớn đối với người tu thiền. Một khi thiền giả đã vào các tầng thiền như “diệt thọ tưởng định” thì dù có trời long đất lở thân tâm của vị ấy cũng bất động. Tuy nhiên, chỉ với một vài tiếng khánh nhỏ cũng đủ đánh thức các Ngài dậy. Câu chuyện Ngài Hư Vân là một điển hình, trong một cơn thiền định xuất thần kéo dài cả tuần, chư vị Hòa Thượng khác đã dùng khánh mà đánh thức Ngài xuất định.

Lời cuối, cầu chúc quý cư sĩ thân tâm thường an lạc, hằng tinh tấn làm các thiện sự và tu tập tâm của mình.

Chuông Trống Bát Nhã Có Công Dụng Gì Trong Chùa ?

Tại mỗi chùa khi cử hành lễ, trước giờ khởi sự và sau khi chấm dứt cuộc lễ đều có thỉnh chuông trống bát nhã.

Chuông trống bát nhã dùng để thỉnh Phật tổ và thỉnh chư Tăng cùng nhau hướng về điện Phật để chứng minh cho buổi lễ sắp diễn ra được thanh tịnh trang nghiêm.

Bài kệ thỉnh chuông trống bát nhã như sau :

Thỉnh Phật thượng đường

Đại chúng đồng văn

Bát nhã âm

Nhập bát nhã ba la mật đa (đọc 3 lần)

Nghĩa là :

Thỉnh chư Phật vào chánh điện,

Xin tất cả quý vị hiện diện lưu ý

Âm vang của chuông trống bát nhã sẽ hòa nhập theo cùng với trí tuệ sáng suốt của chư Phật thành một thể tánh duy nhất.

Thường thường chuông trống bát nhã được cử lên ba hồi lúc bắt đầu cuộc lễ, nhưng khi chấm dứt có thể chỉ thỉnh một hồi và cũng đọc bài kệ như trên. Ngoài việc đón rước và đưa chư Tăng, chư Phật, Hộ Pháp.., việc đánh chuông trống bát nhã còn tượng trưng cho ý nghĩa tinh thần rất lớn là nhân tiếng chuông trống để mọi người có mặt trong giờ sắp hành lễ đều chú tâm vào việc nhiếp tâm cầu nguyện.

Thật vậy, khi nghe tiếng chuông trống bát nhã gióng lên ai nấy trong chánh điện đều đứng dậy chấp tay cầu nguyện, đồng thời tâm hồn người nghe cũng cảm thấy như lắng lặng thanh thoát. Về lịch sử, chuông trống bát nhã không do ai bày ra, nhưng Phật giáo các nước thuộc vùng Đông-Nam-Á châu đều xử dụng trống cùng một mục đích và với một ý nghĩa về tinh thần rất lớn lao vậy.

Muốn cho cuộc lễ được tươm tất và thành kính, chuông trống bát nhã không thể thiếu được lúc bắt đầu và khi chấm dứt lễ.

Tài Liệu Liên Hệ:

Pháp Khí và Pháp Phục, TT. Thích Tín Nghĩa

 
 
 
Thiết kế website   
^ Về đầu trang